Trợ giúp tài chính cho người khuyết tật
Một số người khuyết tật cần có trợ giúp về tài chính hoặc khuyến khích vật chất để có thể có điều kiện hoặc để khuyến khích họ tham gia công việc. Những chính sách trợ giúp hoặc khuyến khích như vậy là cần thiết vì những lý do sau:
• Khi nhận việc, người khuyết tật có thể sẽ không còn được hưởng những chính sách bảo trợ xã hội nữa mà những chính sách này đối với họ là một nguồn thu đảm bảo và đều đặn. Như vậy quyết định nhận việc là một việc khó khăn vì có việc đồng nghĩa với việc chấp nhận một tương lai không ổn định. Nhà lập chính sách cần lưu ý sao cho hệ thống chính sách bảo trợ không tạo nên những trở ngại khi người khuyết tật có việc làm. Một biện pháp đạt được điều này là vẫn cho phép người khuyết tật được quyền hưởng chính sách bảo trợ một khi vì một lý do nào đó họ không duy trì được công việc. Quyền này có thể được bảo lưu trong một thời hạn nhất định, ví dụ trong vòng một năm.
Một biện pháp nữa là chính sách “bắc cầu”, theo đó người khuyết tật được quyền tạo thu nhập đến một mức độ nào đó đồng thời vẫn được hưởng đầy đủ chính sách trợ cấp. Khi mức thu nhập cao hơn mức quy định thì chế độ bảo trợ được hưởng cũng được giảm theo tỉ lệ phù hợp, và sẽ thôi hưởng khi thu nhập vượt qua mức trần quy định.
• Một lý do nữa giải thích cho sự cần thiết phải có hỗ trợ tài chính và chính sách khuyến khích vật chất đó là nhiều người khuyết tật chỉ có thể tìm được những việc làm có thu nhập thấp. Dưới góc độ tài chính, tình trạng của họ khi có việc làm không khá gì hơn khi ngồi nhà và nhận trợ cấp. Một chế độ khuyến khích vật chất để bù vào phần thu nhập thấp có thể góp phần khuyến khích những người này nhận công việc dù đó là những việc làm có thu nhập thấp.
• Một lý do nữa là những người bắt đầu một công việc mới thường phải trang trải những chi phí nhất định. Những chi phí này dùng vào những việc như mua sắm quần áo mới, thiết bị chuyên dung, hoặc chi phí đào tạo hoặc đi lại. Có thể dành cho người khuyết tật không đủ điều kiện kinh tế một khoản chi một lần để trang trải những chi phí nói trên và tránh việc những chi phí như vậy có thể ngăn cản họ nhận việc làm.
Ở Niu Zilân, trợ cấp khuyết tật được cấp cho người khuyết tật trang trải những chi phí hàng ngày mà họ phải chi vì lý do khuyết tật. Số lượng trợ cấp phụ thuộc vào những chi phí cho người đó và vào mức thu nhập của họ. Ở Phần Lan, trợ cấp khuyết tật được trả cho người khuyết tật trong độ tuổi từ 16 đến 64 nhằm giúp họ đối mặt với cuộc sống hàng ngày, trong công việc và trong học tập.
Trợ cấp này nhằm trang trải cho những chi phí vì lý do khuyết tật hoặc vì sức khoẻ yếu. Trợ cấp được trả theo ba mức phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của khuyết tật. Tài sản và thu nhập của người hưởng trợ cấp không ảnh hưởng tới mức trợ cấp, đồng thời họ cũng không bị đánh thuế trên phần trợ cấp này. …. cho doanh nghiệp
Hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp
Các cơ quan nhà nước có thể cấp kinh phí hỗ trợ cho các doanh nghiệp dưới hình thức khoản tiền trợ cấp hoặc khuyến khích về thuế để trang trải các khoản phát sinh thêm liên quan đến việc tuyển dụng người khuyết tật.
Ví dụ, trong một số trường hợp vì cho công nhân tham gia đào tạo hoặc cải tiến thiết bị mà doanh nghiệp phải chịu những phát sinh chi phí nào đó. Nhằm mục đích tránh khả năng những chi phí này gây nản cho doanh nghiệp hoặc để họ lấy đó làm lý do không tuyển dụng người khuyết tật, cơ quan chức năng nhà nước có thể giúp chi trả toàn bộ hoặc một phần chi phí đó. Tuy nhiên, vẫn có nhiều trường hợp doanh nghiệp không phải chịu bất kỳ chi phí thêm nào và như thế hỗ trợ tài chính là không cần thiết.
Ở Bỉ, một thỏa thuận tập thể có sự tham gia ký kết của các đối tác xã hội quy định rằng trong những điều kiện nhất định doanh nghiệp có thể trả một phần trong tổng chi phí cho người lao động là người khuyết tật và phần còn lại sẽ do một cơ quan nhà nước trả.
Trong những trường hợp đặc biệt, thanh tra lao động có thể yêu cầu doanh nghiệp trả cho người lao động được xác định là người khuyết tật một khoản thấp hơn mức tối thiểu được nêu hoặc trong thỏa thuận tập thể hoặc theo mức thông thường. Mức trả lương trả như vậy - thường không bao giờ thấp hơn 50 phần trăm mức lương bình thường - được giải thích là do hiệu suất công việc của người lao động không cao.
Phần chênh lệch giữa mức lương doanh nghiệp được yêu cầu phải trả với mức lương thông thường sẽ được cơ quan nhà nước trả bù.
Ở Đức, doanh nghiệp có thể áp dụng chính sách cho vay hoặc trợ cấp nhằm đáp ứng được yêu cầu về môi trường làm việc hợp lý. Ngoài ra chính sách bù lương và đào tạo nghề cũng được áp dụng cho mọi người khuyết tật.
Doanh nghiệp không trong danh sách phải thực hiện việc cải tiến điều kiện làm việc hợp lý và chính sách định mức vẫn có thể xin tài trợ để cải tiến cơ sở làm việc của mình để người khuyết tật dễ tiếp cận. Hỗ trợ về tiền công được áp dụng khi một nhân viên có hiệu quả công việc thấp.
Số tiền trợ cấp phụ thuộc vào mức độ tàn tật nặng hoặc các yếu tố khác gây cản trở cho quá trình người khuyết tật tham gia môi trường việc làm chung, ví dụ như về tuổi tác. Phụ cấp lương được áp dụng trong một thời hạn, trong khoảng từ ba đến tám năm, phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Tại Hà Lan, tiền trợ cấp được áp dụng cho doanh nghiệp hoặc người khuyết tật về những chi phí cho “cơ sở/dịch vụ” liên quan đến quá trình tái hòa nhập. Những khoản trợ cấp này có thể có nhiều hình thức như từ những đồ dùng đặc biệt, đến phương tiện giao thông, các thiết bị giáo dục hoặc đào tạo, v.v.
Thưởng tiền nhằm khuyến khích tuyển dụng
Các doanh nghiệp có thể dược nhận một khoản tiền thưởng dưới hình thức tiền trợ cấp, tiền bù lương hoặc ưu đãi thuế, để khuyến khích họ sử dụng lao động là người khuyết tật. Khác với khoản tiền trợ cấp bù nói bên trên, giá trị của phần tiền thưởng này không tính cộng vào hoặc có liên quan gì đến những chi phí phát sinh thêm mà doanh nghiệp phải chịu do tuyển dụng người khuyết tật.
Tiền thưởng nhằm mục đích khuyến khích doanh nghiệp nhận người khuyết tật và có tác dụng kêu gọi doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật có những khó khăn đặc biệt khi tìm việc trong thị trường lao động. Trị giá tiền thưởng có thể được định đoạt dựa trên các tính toán về mức độ khó khăn doanh nghiệp phải gánh chịu khi thu nhận người khuyết tật hoặc dựa trên hiệu suất công việc bị thu hẹp của người lao động đó.
Ví dụ, một người khuyết tật nặng hoặc không có kinh nghiệm công việc có thể được đánh giá là khó sử dụng hơn một người khuyết tật nhẹ hoặc người đã có quá trình làm việc trước. Mức thưởng có thể liên quan đến số thời gian mà người lao động đó đã không được tuyển dụng. Mức thưởng cao hơn có thể áp dụng cho doanh nghiệp nhận một công nhân đã không có việc trong một hoặc nhiều năm qua. C
ách làm này sẽ ít mang tính chất kỳ thị hơn và cũng dễ quản lý hơn khi tiền thưởng được dựa trên khả năng làm việc của người khuyết tật. Tiền thưởng có thể mang tính tạm thời, ví dụ trả thêm một tháng lương cho một thời gian làm việc là một hoặc hai năm) hoặc không theo một thời hạn nào. Khi xây dựng chế độ thưởng, cần tiến hành biện pháp để ngăn ngừa hoặc không để xảy ra những trường hợp sau:
Nếu áp dụng chính sách tạm thời, doanh nghiệp có thể cho người khuyết tật thôi việc ngay lập tức, và lại nhận một công nhân có khuyết tật khác để được hưởng tiền thưởng;
Công nhân là người khuyết tật được tuyển dụng theo những chế độ này có thể bị kỳ thị và bị coi là kém khả năng hoặc làm việc kém hiệu quả hơn mọi người khác;
Công nhân không khuyết tật có thể có phản ứng đối nghịch với doanh nghiệp có nhận người khuyết tật nếu họ cho rằng người khuyết tật là mối đe dọa về việc làm đối với họ. Khi áp dụng chính sách thuởng tạm thời, có thể yêu cầu doanh nghiệp cam kết giữ công nhân trong một thời hạn nhất định sau khi doanh nghiệp hết được hưởng chế độ thưởng. Có thể tổ chức những chiến dịch truyền thông để tuyên truyền khả năng của người khuyết tật và để phá bỏ những định kiến về họ. Cần kêu gọi sự tham gia của các tổ chức công đoàn vào chính sách thưởng, coi đó như một hình thức để vượt qua những nghi ngại dè dặt của những người không khuyết tật khi tham gia thực hiện chính sách này.
Ở Hà Lan, người ta áp dụng một khoản trợ cấp theo thỏa thuận (gọi là ngân sách tuyển dụng) cho doanh nghiệp để bù đắp cho việc nhận người khuyết tật trong thời hạn ít nhất là sáu tháng hoặc lâu dài. Ngoài ra doanh nghiệp còn được hưởng một khoản trợ cấp nữa (gọi là ngân sách chuyển đổi công việc) để doanh nghiệp tạo ra một việc làm mới cho một nhân viên của mình khi nhân viên này mất khả năng đảm đương công việc trước đây.
Một cách làm khác là cho doanh nghiệp hưởng trợ cấp khi doanh nghiệp này yêu cầu để doanh nghiệp tạo việc làm trọn gói theo khả năng của từng cá nhân mà chi phí cho việc tạo việc làm trọn gói này vượt quá ngân sách tuyển dụng và ngân sách chuyển đổi công việc nêu trên.
Ở Canađa, những người thất nghiệp trong diện hưởng bảo hiểm việc làm mà thường gặp khó khăn trong tìm việc vì lý do những rào cản trong công việc thì được trợ giúp để tìm nhà tuyển dụng. Nhà tuyển dụng này sẽ ký kết hợp đồng với Trung tâm nhân lực Canađa tại địa phương để cung cấp việc làm cho những người thất nghiệp nêu trên. Hợp đồng với nhà tuyển dụng có thể có hiệu lực trong vòng 87 tuần.
Ở Úc, một chính sách bù luơng được áp dụng để khuyến khích doanh nghiệp cung cấp việc làm cho người khuyết tật trong thị trường lao động chung. Chính sách này nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của lao động là người khuyết tật, giúp họ kiếm được việc làm với thời hạn ít nhất 8 giờ trong một tuần và kéo dài ít nhất trong 13 tuần. Một chính sách kết hợp cả thưởng và các dịch vụ hỗ trợ việc làm nên được áp dụng để giúp cho người tìm việc khuyết tật có được việc làm và khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể tuyển dụng người khuyết tật và giữ họ được lâu trong công việc.
Phạm Mai Theo tài liệu của Tổ chức ILO